Total: 29 results found.
Page 2 of 2
Austria 10 November 1994 Supreme Court (Chinchilla furs case)
Cơ quan xét xử: Tòa án tối cao, Áo
Bên tranh chấp:
- Nguyên đơn: Bên bán – Đức
- Bị đơn: Bên mua – Áo
Tóm tắt tình tiết: Bên mua là doanh nghiệp có trụ sở kinh doanh tại Áo đã gửi đơn đặt hàng một số lượng lớn lông Chinchilla có chất lượng bậc trung trở lên với giá từ 35 đến 65 mác Đức một tấm cho bên bán là doanh nghiệp có trụ sở kinh doanh tại Đức. Bên bán đã vận chuyển 249 tấm cho bên mua và bên mua đã bán cho khách hàng tại Ý với giá tương đương mà không mở gói hàng ra. Khách hàng của bên mua đã gửi trả lại 13 tấm lông vì cho rằng chúng có chất lượng kém hơn thỏa thuận. Bên mua gửi lại cho bên bán danh sách các tấm lông bị từ chối và không thanh toán tiền hàng cho bên bán.
Vấn đề pháp lý: Lời đề nghị giao kết như trên có đủ chính xác để trở thành một lời chào hàng theo quy định của CISG?
Phán quyết: Tòa án lập luận rằng đơn đặt hàng của bên mua đã ghi rõ tên hàng hóa là “lông Chinchilla” với chất lượng và mức giá cụ thể, được coi là đủ chính xác để cấu thành đề nghị giao kết hợp đồng gửi đến cho bên bán. Bên bán đã chấp nhận chào hàng này do đó hợp đồng mua bán hàng hóa đã được hai bên giao kết.
Germany 11 March 1998 Appellate Court München (Cashmere sweaters case)
Cơ quan xét xử: Tòa án phúc thẩm địa phương, Đức
Bên tranh chấp:
- Nguyên đơn: Bên bán – Ý
- Bị đơn: Bên mua – Đức
Tóm tắt tình tiết: Bên mua có trụ sở kinh doanh tại Đức đã đặt mua áo len cashmere từ bên bán có trụ sở kinh doanh tại Ý. Trong đơn đặt hàng của bên mua có chứa điều khoản soạn sẵn với nội dung sau: “Những điều kiện chuẩn của ngành quần áo và dệt may của Đức là một phần của đơn đặt hàng”, và điều khoản này cũng được ghi nhận trong các đơn đặt hàng khác. Bên bán gửi xác nhận lại mỗi đơn đặt hàng của bên mua nhưng kèm theo điều khoản soạn sẵn với nội dung: “Đối tượng của hợp đồng cũng là việc thanh toán và vận chuyển theo điều kiện của ngành công nghiệp dệt may Đức. […] Nếu khách hàng bị khởi kiện tại quốc gia có thẩm quyền đối với văn phòng kinh doanh của khách hàng này, quốc gia đó có thẩm quyền giải quyết. […] Khiếu nại phải được lập thành văn bản trong vòng 14 ngày kể từ ngày nhận hàng”, và vẫn thực hiện hợp đồng. Sau khi bên bán giao hàng, bên mua cho rằng hàng hóa không phù hợp với hợp đồng nên không tiếp tục thanh toán. Bên bán khởi kiện bên mua yêu cầu thanh toán giá trị hợp đồng và lãi chậm trả.
Vấn đề pháp lý: Điều khoản hợp đồng nào có giá trị ràng buộc các bên?
Phán quyết: Có thể thấy chấp nhận của bên bán đối với đơn đặt hàng của bên mua đã làm biến đổi cơ bản điều khoản soạn sẵn của đơn đặt hàng theo quy định của khoản 3 Điều 19. Tuy nhiên, bên mua đã chấp nhận những điều kiện chung bổ sung đó, có nghĩa là hoàn giá của bên bán, bằng việc thực hiện hợp đồng. Vì thế, tòa án trong tranh chấp này đã tuyên rằng hợp đồng được các bên giao kết và điều khoản của hợp đồng là những điều khoản soạn sẵn trong đơn đặt hàng của bên mua kèm theo những sửa đổi trong thư xác nhận đơn đặt hàng của bên bán, do bên mua vẫn tiến hành thực hiện hợp đồng mà không có động thái phản đối. Điều này đồng nghĩa với điều khoản soạn sẵn của bên mua sẽ không có giá trị pháp lý, không cấu thành một phần nội dung của hợp đồng.
France 27 May 2008 Court of Appeals Rennes (Brassiere cups case)
Cơ quan xét xử: Tòa phúc thẩm, Pháp
Bên tranh chấp:
- Nguyên đơn: Bên mua – Pháp
- Bị đơn: Bên bán – Ý
Tóm tắt tình tiết: Vào năm 2003, bên bán là doanh nghiệp có trụ sở tại Pháp đã giao kết với bên mua là doanh nghiệp có trụ sở tại Ý một số hợp đồng mua miếng lót ngực để sản xuất áo bơi. Tổng số lượng hàng hóa của các hợp đồng là 17.600 đôi. Hàng hóa được giao đến cho một công ty Tunidi để gia công. Trong quá trình gia công, bên mua phát hiện ra các miếng lót ngực không phù hợp với yêu cầu về chất lượng đã được quy định trong hợp đồng và trả lại hàng. Ngày 3/11/2003, bên bán Italia đề nghị sẽ sửa chữa hàng hóa và sẽ giao hàng hóa phù hợp trong thời gian 5 tuần. Tuy vậy, bên bán đã không thực hiện được việc sửa chữa hàng hóa trong thời gian nói trên. Ngày 11/12/2003, bên mua tuyên bố hủy hợp đồng và đòi bên bán bồi thường 32.490 euros, bao gồm 2 khoản sau:
- Chi phí sản xuất lô áo bơi tại Tuy-ni-di từ miếng lót ngực không đạt chất lượng: 16.290 euros (1800 áo x chi phí 9,05 euros/áo)
- Thiệt hại (do chênh lệch giá) khi mua miếng lót ngực để thay thế: công ty bên mua, vào tháng 12/2003 đã phải đặt hàng mua gấp 16.200 đôi miếng lót ngực từ một nhà cung cấp T khác và vì mua gấp cũng như không có vị thế đàm phán nên phải chấp nhận mức giá cao hơn 1 euros so với mức giá trong hợp đồng, dẫn đến thiệt hại là 16.200 euros
Bên bán phản đối các điểm bồi thường nói trên và cho rằng các khoản này là không hợp lý.
Vấn đề pháp lý: Bên mua có được yêu cầu bồi thường thiệt hại theo CISG?
Phán quyết: Về các khoản mà bên mua đòi bồi thường, tòa án lập luận như sau:
– Khoản 1: Theo các thư từ trao đổi giữa các bên trong quá trình giải quyết tranh chấp, vào thời điểm phát hiện ra sự không phù hợp của hàng hóa, chỉ có 860 đôi miếng lót ngực được đưa vào sản xuất. Tuy vậy, phải đợi 3 ngày sau thì công ty bên mua mới cho lệnh dừng dây chuyền sản xuất áo bơi tại Tunidi, làm cho số lượng áo bơi được sản xuất tăng lên 1800. Tòa án dẫn chiếu đến Điều 77 CISG liên quan đến nguyên tắc hạn chế tổn thất, theo đó, bên bị vi phạm phải áp dụng những biện pháp hợp lý căn cứ vào các tình huống cụ thể để hạn chế tổn thất do sự vi phạm hợp đồng gây ra. Tòa án cho rằng, trong trường họp này, đáng lẽ bên mua phải hành động nhanh chóng hơn để giảm bớt thiệt hại do việc miếng lót ngực không đúng chất lượng được đưa vào sản xuất. Hơn nữa, chi phí sản xuất áo bơi (9,05 euros/áo) do bên mua tính là chưa hợp lý vì chi phí nhân công trung bình để sản xuất áo bơi tại Tunidi thấp hơn ở Pháp rất nhiều, chỉ khoảng 1 euros/áo. Với những lập luận đó, Tòa án cho rằng bên mua chỉ được đòi bồi thương thiệt hai số tiền là 3000 euros.
– Khoản 2: Để xem xét khoản thiệt hại do mua hàng thay thế, tòa án áp dụng Điều 75 CISG: Khi hợp đồng bị hủy và nếu bằng một cách hợp lý và trong một thời hạn hợp lý sau khi hủy hợp đồng, bên mua đã mua hàng thay thế hay bên bán đã bán lại hàng thì bên đòi bồi thường thiệt hại có thể đòi nhận phần chênh lệch giữa giá hợp đồng và giá mua thay thế hay bán lại hàng. Khi so sánh giá một đôi miếng lót ngực theo hợp đồng là 0,93 và 0,98 euros (tương ứng với hai cỡ MB 01 và MB 02) và giá mua thay thế là 1,98 Tòa án thấy rằng sự chênh lệch giá là quá lớn và bất hợp lý. Tòa cho rằng, việc mua hàng thay thế vì thế đã không đáp ứng được yêu cầu về tính hợp lý được quy định tại Điều 75 CISG. Vì thế, khoản thiệt hại này đã bị tòa án bác bỏ.
Tòa án ra phán quyết rằng bên mua chỉ yêu cầu bồi thường được 3000 euros chứ không phải là 32.490 euros.
Asante Technologies, Inc. v. PMC-Sierra, Inc., U.S. [Federal] District Court for the Northern District of California, 30 July 2001
Cơ quan xét xử: Tòa án sơ thẩm Liên bang quận Bắc California, Hoa Kỳ
Bên tranh chấp:
- Nguyên đơn: Bên mua – Hoa Kỳ
- Bị đơn: Bên bán – Canada
Tóm tắt tình tiết: Bên mua một nhà sản xuất ổ cắm mạng có trụ sở tại bang California, Hoa Kỳ giao kết “Thỏa thuận bảo hành có giới hạn cho sản phẩm prototype” với bị đơn là một doanh nghiệp được thành lập tại Hoa Kỳ nhưng có trụ sở tại bang Oregon Hoa Kỳ và Canada. Thỏa thuận này có đề cập đến các phẩm cách kỹ thuật của các phụ kiện mà bên mua muốn bên bán đáp ứng. Khi đặt mua phụ kiện, bên mua theo hướng dẫn của bên bán đã gửi hầu hết các đơn đặt hàng đến một nhà phân phối độc lập ở California. Các phụ kiện này sau đó bị khiếu nại là không phù hợp với thỏa thuận.Bên mua khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Vấn đề pháp lý: Liệu CISG có được áp dụng để điều chỉnh mối quan hệ mua bán hàng hóa giữa hai bên?
Phán quyết: Tòa án xét thấy hợp đồng giữa hai bên thuộc phạm vi điều chỉnh của CISG, bởi hai bên đều có trụ sở kinh doanh tại hai quốc gia khác nhau và cả hai quốc gia này đều là thành viên của Công ước theo quy định tại Điều 1(1)(a). Cụ thể, bên bán có trụ sở kinh doanh, văn phòng bán hàng và marketing, phòng đối ngoại và nhà kho ở British Columbia, cũng như thực hiện phần lớn các chức năng thiết kế và kỹ thuật khác tại đây. Trong quá trình thương lượng với bên mua, bên bán đã gửi các văn bản về phẩm cách kỹ thuật từ Canada và các bên đã thực hiện thỏa thuận này tại Canada. Tòa án cũng thấy rằng trụ sở kinh doanh tại Canada của bên bán có mối quan hệ mật thiết nhất với hợp đồng và là nơi thực hiện hợp đồng, dù cho bên mua có liên lạc với các kỹ sư bên bán ở trụ sở kinh doanh tại Mỹ.
Arbitration Tribunal of Bulgarian Chamber of Commerce & Industry Case No. 56/1995 of 24 April 1996
Cơ quan tài phán: Cơ quan trọng tài của Phòng Thương mại và Công nghiệp Bulgaria
Bên tranh chấp:
- Nguyên đơn: Bên mua – Bulgari
- Bị đơn: Bên bán – Ukraine
Tình tiết: Các bên thỏa thuận rằng bên bán sẽ vận chuyển một số lượng than nhất định với một giá trị cụ thể và bên mua sẽ thanh toán giá trị hợp đồng theo 05 tín dụng thư được mở bởi bên mua. Do hàng hóa khi được vận chuyển đến không đủ số lượng yêu cầu trong hợp đồng, bên mua từ chối thanh toán 10% giá trị hợp đồng còn lại. Bên bán cho rằng mình được miễn trách nhiệm theo quy định về sự kiện bất khả kháng trong Điều 8 của hợp đồng và Điều 79(1) CISG, căn cứ vào thực tế là Chính phủ Ukraine đã ban hành Nghị định cấm xuất khẩu than và cuộc biểu tình của các công nhân mỏ than tại Ukraine xảy ra khiến cho nghĩa vụ giao hàng hóa theo hợp đồng là không thể thực hiện.
Vấn đề pháp lý: Bên bán có được miễn trách theo quy định tại Điều 79(1) CISG hay không.
Phán quyết: Bên bán không được miễn trách theo quy định tại Điều 79(1) CISG.
Lập luận: Cơ quan xét xử cho rằng sự kiện được coi là bất khả kháng (force majeure) khi nó xảy ra sau thời điểm giao kết hợp đồng và là sự kiện với “tính chất bất thường, không thể lường trước và ngăn chặn được”. Việc Chính phủ quốc gia bên bán ban hành Nghị định cấm xuất khẩu than là sự kiện bất ngờ và khách quan, nhưng đã xảy ra trước thời điểm các bên giao kết hợp đồng và vào thời điểm xảy ra cuộc biểu tình của các công nhân mỏ than tại Ukraine, bên bán đã có mặt tại đó và biết được điều này. Bên bán cũng đã không thông báo ngay cho bên mua về việc không thể thực hiện nghĩa vụ của mình theo hợp đồng do có sự kiện bất khả kháng theo Điều 8 trong hợp đồng và Điều 79(4) CISG.
Switzerland 10 February 1999 Handelsgericht [Commercial Court] Zürich (Art books case)
Cơ quan tài phán: Commercial Court HG Zürich
Bên tranh chấp:
- Nguyên đơn: Bên bán – Ý
- Bị đơn: Bên mua – Thuỵ Sĩ
Tình tiết: Từ năm 1995 đến 1996, bên bán nhận được lời mời giao kết hợp đồng với bên mua là một nhà xuất bản sách hội họa, trong đó bao gồm việc in ấn, đóng kiện và vận chuyển sách hội họa và catalogues. Bên bán đã ký hợp đồng với một công ty vận chuyển để vận chuyển hàng hóa và công ty này cam kết sẽ giao hàng đúng hạn cho bên mua. Khi bên mua không trả đủ tiền cho bên bán, bên bán khởi kiện đòi thanh toán đủ số tiền còn lại. Bên mua phản tố vì cho rằng bên bán đã liên tục không vận chuyển sách hội họa và catalogues đúng hạn cho buổi khai mạc triển lãm và thuyết trình, từ đó làm bên mua mất uy tín trầm trọng với bạn hàng và chịu nhiều thiệt hại.
Vấn đề pháp lý: Bên bán có được miễn trách theo quy định tại Điều 79 CISG hay không.
Phán quyết: Bên bán được miễn trách theo quy định tại Điều 79 CISG.
Lập luận: Tòa án nhận thấy rằng theo Điều 31 CISG, bên bán chỉ có nghĩa vụ chuẩn bị cho việc vận chuyển, ví dụ như giao hàng hóa cho người vận chuyển đầu tiên để người này vận chuyển hàng đến bên mua. Bên mua đã không chứng minh được rằng hợp đồng có quy định việc bên bán phải chịu rủi ro vận chuyển, ví dụ như bằng một điều khoản Incoterms cụ thể. Bên bán đề nghị giá tiền là giá tại xưởng (ex-works price) và xác nhận đơn hàng quy định ngày thực hiện nghĩa vụ là ngày “chuẩn bị sẵn sàng cho việc vận chuyển”. Vì thế, tòa án cho rằng bên bán đã thực hiện nghĩa vụ giao hàng cho bên vận chuyển đúng hạn và không chịu trách nhiệm đối với sự chậm trễ của bên vận chuyển.
Cơ quan tài phán: Tòa trọng tài ICC – Paris
Bên tranh chấp:
- Nguyên đơn: Bên bán – Áo
- Bị đơn: Bên mua – Bulgaria
Tình tiết: Vào năm 1990, bên bán ở Áo và bên mua ở Bulgaria giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa. Các bên đồng ý rằng giá cả sẽ được thanh toán theo tín dụng thư được mở vào một ngày nhất định và hàng hóa được vận chuyển theo điều khoản “DAF” của ICC-INCOTERM tại biên giới Áo – Hungaria 4 tuần sau khi mở tín dụng thư. Các bên cũng thỏa thuận điều khoản phạt hợp đồng nếu một bên không thực hiện nghĩa vụ của mình. Tuy nhiên, sau đó, bên mua không thực hiện nghĩa vụ tín dụng thư của mình theo thời gian đã được thỏa thuận trong hợp đồng và trong cả thời gian được bên bán gia hạn. Bên mua cho rằng việc không thể mở được tín dụng thư là do Chính phủ Bulgaria đã ra lệnh ngưng các hoạt động thanh toán nợ nước ngoài, là trở ngại để được miễn trách theo Điều 79(1) CISG.
Vấn đề pháp lý: Bên mua có được miễn trách theo quy định tại Điều 79(1) CISG hay không.
Phán quyết: Bên mua không được miễn trách theo quy định tại Điều 79(1) CISG.
Lập luận: Cơ quan xét xử cho rằng việc Chính phủ Bulgaria ra lệnh ngừng thanh toán nợ nước ngoài không phải là 'force majeure' ngăn bên mua mở tín dụng thư. Thực tế, bên mua không chứng minh được rằng việc không mở được tín dụng thư là hệ quả của lệnh buộc ngưng thanh toán này. Trong bất kỳ trường hợp nào, lệnh ngừng thanh toán này đã được ban hành tại thời điểm giao kết hợp đồng và vì thế bên mua có thể lường trước được một cách hợp lý những khó khăn trong việc mở tín dụng thư. Do đó, lý lẽ bên mua đưa ra không thỏa mãn điều kiện tại Điều 79(1) CISG.
Germany 31 January 1997 Appellate Court Koblenz (Acrylic blankets case)
Cơ quan tài phán: Tòa án Phúc thẩm Koblenz, Đức
Bên tranh chấp:
- Nguyên đơn: Bên mua – Đức
- Bị đơn: Bên bán – Hà Lan
Tình tiết: Bên bán là doanh nghiệp có trụ sở ở Hà Lan đã vận chuyển các cuộn chăn màu acrylic cho bên mua có trụ sở ở Đức theo hợp đồng mua bán giữa các bên. Bên mua đã gửi thư thông báo chất lượng hàng hóa không phù hợp với hợp đồng và lô hàng còn thiếu năm cuộn chăn, nhưng không nói rõ là mẫu nào tuy bên bán được yêu cầu gửi hàng theo nhiều mẫu khác nhau. Bên mua cũng lập luận rằng việc trao đổi hàng hóa này là phụ thuộc vào bên bán do bên bán là nhà phân phối độc quyền theo thỏa thuận giữa các bên và hành vi của bên bán đã vi phạm hợp đồng. Bên bán kiện đòi bên mua thanh toán số tiền còn lại, bên mua phản tố.
Vấn đề pháp lý: Bên bán có được miễn trách theo quy định tại Điều 80 CISG hay không?
Phán quyết: Bên bán được miễn trách theo quy định tại Điều 80 CISG.
Lập luận: Tòa án nhận thấy rằng bên mua đã không thông báo đầy đủ về tình trạng của hàng hóa theo Khoản 1 Điều 39 CISG, từ đó làm bên bán không thể khắc phục sự không phù hợp của hàng hóa. Bên mua cũng không chứng minh được rằng giao dịch hàng hóa này phụ thuộc vào bên bán. Ngoài ra, khi bên bán đề nghị giao hàng thay thế, bên mua đã nhất định từ chối mà không đưa ra lý do, và số lượng chăn không phù hợp với hợp đồng không đến mức nghiêm trọng. Do đó, căn cứ theo Điều 80 CISG, bên bán được miễn trách nhiệm do hành vi giao hàng hóa không phù hợp với hợp đồng bởi bên mua đã từ chối cho bên bán khắc phục mà không có lý do chính đáng. Bên mua cũng mất quyền được giảm giá và yêu cầu bồi thường thiệt hại. Bên bán được quyền yêu cầu thanh toán lãi suất với tỉ lệ căn cứ theo pháp luật Hà Lan.
MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ